Thuế nhập khẩu
Bộ Tài chính Na Uy chịu trách nhiệm hoạch định chính sách, đặc biệt là các dòng thuế mới hoặc thay đổi mức thuế nhập khẩu. Mức thuế nhập khẩu được đăng trên Hệ thống cơ sở dữ liệu công và luôn được áp dụng từ ngày 1/1 đến 31/12. Hệ thống cơ sở dữ liệu cung cấp thông tin về mức thuế thông thường, mức thuế MFN, cơ chế ưu đãi thuế quan, các biện pháp kiểm soát nhập khẩu và hạn ngạch thuế quan.
Danh mục thuế suất của Na Uy được quy định theo mã HS 2017, có hiệu lực từ ngày 1/1/2017. Khoảng 85% các dòng thuế thuộc diện miễn thuế, các mặt hàng chịu thuế chủ yếu là dệt may, thực phẩm, và đồ uống.
Để bảo vệ ngành sản xuất nông nghiệp trong nước, Na Uy chia hàng nông sản, thực phẩm làm 3 nhóm chịu thuế:
- Nhóm thuế cao: đánh vào các mặt hàng thịt, sữa, phomai, ngũ cốc. Các mặt hàng thuộc nhóm này cũng bị hạn chế nhập khẩu;
- Nhóm thuế trung bình: đánh vào các mặt hàng socola, bánh kẹo, pizza, khoai tây, cà chua, dưa chuột, táo. Các mặt hàng trong nhóm này thường là hàng nông sản chế biến;
- Nhóm thuế thấp hoặc không thuế: đánh vào các mặt hàng bia, soda, đường, cà phê, chè, gạo, ngô, cam, thực phẩm cho chó mèo, một số loại thực vật. Các mặt hàng nằm trong nhóm này thường là các mặt hàng Na Uy không sản xuất. Các mặt hàng trong nhóm này thường bị áp hạn ngạch thuế quá. Việc cấp hạn ngạch thuế quan thông qua nhiều hình thức. Một số hạn ngạch áp dụng cho tất cả các nước, trong khi một số chỉ dành cho các nước có thoả thuận thương mại song phương hoặc khu vực, một số hạn ngạch ưu đãi thuế dành cho các nước đang phát triển trong chương trình GSP. Hạn ngạch thuế quan cũng có thể được cấp thông qua đấu giá, nộp đơn xin, hoặc theo nguyên tắc ưu tiên những người yêu cầu trước (first come, first served basic).
Thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng cũng có thể thay đổi trong năm. Chẳng hạn, thuế nhập khẩu áp dụng đối với táo vào mùa thu cao hơn nhiều so với mùa xuân nhằm bảo vệ sản xuất trong nước.
Hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài có trị giá dưới 350 NOK không phải chịu thuế.
Thông tin về giảm thuế đối với các mặt hàng nông sản chế biến
Thông tin chi tiết về việc xin hạn ngạch thuế quan
Tra cứu mức thuế nhập khẩu
Thuế VAT
Thuế VAT đánh vào hàng nhập khẩu của Na Uy được tính trên cơ sở giá CIF. Cho dù hàng hoá được miễn thuế nhập khẩu thì vẫn phải nộp thuế VAT. Luật thuế VAT của Na Uy năm 2009 qui định mức thuế suất VAT được ấn định hàng năm bởi Quốc hội căn cứ vào luật ngân sách hàng năm. Hiện nay, thuế VAT là 25%, trừ mặt hàng thực phẩm và đồ uống (không kể rượu) được hưởng thuế 15%.
Kể từ năm 2016, trách nhiệm thu thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu được chuyển từ Cơ quan Hải quan sang Cơ quan Thuế Na Uy.
Trước năm 2016, khi làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa, nhà nhập khẩu phải khai báo hải quan và có trách nhiệm nộp thuế cho Cơ quan Hải quan. Tuy nhiên, những thay đổi về thủ tục và tổ chức thu thuế có hiệu lực từ tháng 1/2017 đã đơn giản hóa qui trình nộp thuế này, theo đó các nhà nhập khẩu đã đăng ký mã số VAT sẽ không phải khai báo, tính thuế cũng như trả thuế VAT cho Cơ quan Hải quan khi làm thủ tục nhập khẩu, thay vào đó họ sẽ trả thuế VAT theo như quy trình nộp thuế VAT thông thường. Đối với nhà nhập khẩu không đăng ký thì quy trình vẫn giữ như cũ, nộp cho Cơ quan Hải quan tại thời điểm nhập khẩu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt của Na Uy và các quy định liên quan cung cấp hành lang pháp lý cho việc thực hiện thuế tiêu thụ đặc biệt. Hàng năm, Quốc hội sẽ ra quyết định về mức thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng căn cứ vào thay đổi chỉ số giá tiêu dùng trong nước để đảm bảo số thuế thu được không thay đổi.
Na Uy có khoảng 20 danh mục hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, trong đó thuế suất đối với đường và socola tăng lên đáng kể do chính sách về Y tế công của chính phủ.
Nhìn chung, thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng cho hàng nhập khẩu và hàng nội địa là bình đẳng, tuy nhiên cũng có một vài trường hợp ngoại lệ, có mức thuế suất thấp hơn hoặc hoàn thuế đối với những mặt hàng sản xuất trong nước hoặc đối với một số ngành nhất định. Ví dụ, Na Uy hoàn thuế đánh trên khí CO2 đối với việc sản xuất gỗ, ngành chế biến cá, dịch vụ hàng không nội địa và đánh bắt cá gần bờ.
Qui định về thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế nghiên cứu nông nghiệp
Ngoài thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt, còn có một loại thuế khác đánh vào hàng nông nghiệp nhập khẩu là thuế nghiên cứu nông nghiệp. Mục đích của loại thuế này là đảm bảo ngân quỹ cho việc nghiên cứu về nông nghiệp có mục đích sản xuất thực phẩm thương mại và thức ăn chăn nuôi.
Loại thuế này đánh vào cả các sản phẩm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước và nhập khẩu (trừ cá). Đối với sản phẩm sản xuất trong nước, mức thuế là 0,35% trên tổng trị giá hóa đơn chưa bao gồm VAT. Trong khi đó với các sản phẩm nhập khẩu, mức thuế suất là 0,35% trên trị giá khai báo hải quan. Đối với hàng đã qua chế biến hoặc sơ chế, thuế suất sẽ là 0,25% trên trị giá tính thuế.
Thuế chống phá giá, thuế đối kháng và tự vệ
Luật Hải quan Na Uy quy định các vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại, chống phá giá, chống trợ cấp, và tự vệ thương mại.
Thực hiện kết quả đạt được ở vòng đàm phán Uruquay về nông nghiệp, Na Uy đưa ra các quy định phù hợp với WTO về cơ chế tự vệ đặc biệt, theo đó cho phép nước này tăng mức thuế suất thuế nhập khẩu thông thường, thuế tự vệ đối với những mặt hàng nông nghiệp có thể ảnh hưởng bởi việc nhập khẩu từ nước ngoài.
Tuy nhiên, Na Uy chưa khởi xướng bất kỳ cuộc điều tra chống bán phá giá, trợ cấp, cũng như áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại nào kể từ khi gia nhập WTO.
Thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng không được áp dụng giữa các nước thành viên trong EEA và cũng không được áp dụng trong EFTA.